Nguyễn Trí Vị tự là Hiền Nhu, hiệu Phúc Diên, sinh giờ Mùi ngày 14 tháng 4 năm Canh Tuất (1670) tại làng Sơn Đồng, huyện Đan Phượng, nay là xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Xã Sơn Đồng là vùng đất có truyền thống hiếu học từ lâu đời, toàn xã có trên 20 dòng họ với 8 vị đỗ Đại khoa, trong đó, dòng họ Nguyễn Trí có hai Tiến sĩ là Nguyễn Trí Cung và Nguyễn Trí Vị.
Cổng nhà thờ Tế tửu Quốc Tử Giám Nguyễn Trí Vị, xã Sơn Đồng, Hoài Đức, Hà Nội (p.NCST)
Sinh ra trong gia đình vốn có truyền thống đèn, sách nên từ nhỏ, Nguyễn Trí Vị rất chăm chỉ học hành. Ông cùng với người anh họ là Nguyễn Trí Cung thi đua học giỏi và đỗ cao. Mùa xuân năm Quý Mùi, niên hiệu Chính Hòa (1703), Triều đình mở khoa thi, Nguyễn Trí Cung tham dự kỳ thi và đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, được làm lễ vinh quy bái tổ rất long trọng. Đây là sự kiện khiến ông ngày đêm ra sức dùi mài kinh sử. Năm sau, Nguyễn Trí Vị đi thi Hương và đỗ Tú tài, được cử làm Tri huyện Thiên Bản (thuộc Nam Định ngày nay). Vẫn chưa đạt được mục tiêu, nên ông quyết chí tiếp tục sôi kinh nấu sử. Học tài, thi phận, khoa thi năm 1710, ông vẫn chỉ đỗ Tú tài. Hai lần thi không đỗ cao nhưng ông không những không nản chí mà quyết tâm càng cao hơn, dồn sức cho học tập càng nhiều hơn. Đến năm Nhâm Thìn niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8 đời Lê Dụ Tông (1712) triều đình mở khoa thi. Nguyễn Trí Vị tham dự và đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân. Họ tên, quê quán của ông được khắc trên bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám: “Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân. Nguyễn Trí Vị: xã Sơn Đồng, huyện Đan Phượng”.
Ngay năm đó, ông được vua sắc phong khen ngợi vì đã đỗ đạt, đồng thời cử ông làm Giám sát ngự sử đạo Hải Dương, với chức trách giữ việc giám sát bách liêu, tuần án quận huyện, cứu thị hình ngục, chỉnh đốn triều nghi ở địa phương. Năm 1714, ông được thăng chức Hiến sát sứ tỉnh Thái Nguyên, hàm chánh lục phẩm. Hiến sát sứ là chức quan đứng đầu của Hiến sát sứ ty, chịu trách nhiệm quản lý việc thực hiện chức trách của Hiến sát sứ ty: đàn hặc, khám đoán, xét hỏi, hội đồng kiểm soát, khảo khoá, tuần hành.
Là vị quan tài năng lại tận tụy, cẩn trọng, ông được triều đình đánh giá cao, nên sau đó ông được triệu về kinh, sung làm Hàn lâm viện Đãi chế, chuyên việc hiệu đính văn thư, từ mệnh, lệnh chỉ, sắc phong…
Khoảng đầu năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1737), ông được sắc phong giữ chức Tế tửu Quốc Tử Giám, chức quan đứng đầu trường Quốc học, một trong những chức quan quan trọng đối với nền giáo dục, đào tạo nhân tài cho nhà nước và chỉ những người văn tài lỗi lạc, học vấn uyên thâm và đạo cao đức trọng mới được bổ dụng.
Chức trách của Tế tửu Quốc Tử Giám là trông coi Văn Miếu, ngày ngày đến nhà Thái học hội các học trò để giảng sách sử, hàng tháng theo đúng kỳ cho tập làm văn để gây dựng nhân tài. Ngoài ra, Tế tửu còn phải tổ chức đánh giá sự tiến bộ trong học thuật của học trò công bằng, khách quan vì những đánh giá đó là căn cứ để triều đình cất nhắc và bổ dụng. Nguyễn Trí Vị đã hoàn thành xuất sắc chức trách của một vị Tế tửu, góp phần củng cố, phát triển nền giáo dục nước nhà, được triều đình đánh giá là người có tâm thuật, hành sự cung kính trung cần.
Trong thời gian làm quan trong triều, Nguyễn Trí Vị là một người có tài, có đức, nhưng cũng luôn có ý thức góp sức xây dựng đất nước, quê hương, khích lệ chí khí hậu sinh. Năm Vĩnh Thịnh thứ 12 (1716), ông là người góp phần quan trọng trong việc xây dựng Văn miếu Đan Phượng, là người soạn bài ký cho bia “Văn miếu Đan Phượng huyện bút ký” đặt tại Văn miếu Đan Phượng. Bài ký là một tư liệu quan trọng không chỉ cho thấy con người Nguyễn Trí Vị, mà còn giúp ta nghiên cứu về Văn Miếu hàng huyện, về đời sống văn hóa, đạo đức làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XVIII. Văn bia cho biết, việc xây dựng Văn miếu là để tôn kính, biết ơn các bậc tiên triết, thánh hiền đời xưa đã gây dựng lên phong tục, giáo hóa tốt đẹp, để cho đời sau thấm nhuần văn chương, đức nghiệp. Bài ký cho biết, Văn Miếu được các thân sĩ địa phương quyên góp tiền xây dựng chỉ trong vòng một năm, là bởi vì: “Lòng bền thì không có việc gì khó. Công trình nguy nga, tráng lệ biểu hiện lễ nhạc của một vùng xuân thu nhắc nhở muôn đời. Khiến cho đạo lớn được không ngừng phát huy chí khí của hậu sinh được luôn khích lệ. Mở rộng đường, nên tài lương đống giúp nước yêu dân. Chưa được vậy, thì cũng là khuôn phép của bậc chân nhân, trí sĩ”.
Văn bia Văn miếu Đan Phượng là một sử liệu quan trọng trong việc nghiên cứu về lịch sử hình thành và tồn tại của các di tích Nho học Việt Nam, và về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của người Đan Phượng nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung.
Năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1738), Nguyễn Trí Vị 70 tuổi, theo lệ được về trí sĩ được gia phong Hàn lâm viện Thừa chỉ, tước Đan Sơn bá, được nhà vua vinh phong hàm Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, được khao lão thượng thọ theo tục lệ của làng.
Nguyễn Trí Vị mất năm 1743 tại quê nhà, hưởng thọ 74 tuổi. Nhà vua hay tin đã phong tặng ông là Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Công bộ Hữu thị lang Đan Sơn bá, và ban cho 500 quan tiền để làm ma chay, 200 quan cho con cháu dùng vào việc thờ cúng hàng năm. Ông ra đi trong sự tiếc thương và lòng cảm mộ của gia đình, dòng họ, nhân dân địa phương và văn thân sĩ phu cả nước. Với những cống hiến của ông cho đất nước và sự phát triển văn hóa tại Đan Phượng quê hương ông, ông xứng đáng là một nhà trí thức, một nhà giáo dục lớn của quê hương Đan Phượng.
Ths. Hoàng Mai Lan -Cán bộ Phòng Nghiên cứu – Sưu tầm
Trung tâm HĐVHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám